Thanh khoản là một trong những yếu tố quan trọng mà khách hàng cá nhân và doanh nghiệp cần quan tâm khi quản lý tài chính. Ngoài ra, đây cũng là khả năng đặc biệt giúp ngân hàng duy trì hoạt động hiệu quả. Vậy chính xác thì thanh khoản là gì và có ý nghĩa như thế nào trong lĩnh vực ngân hàng? Bài viết sau đây sẽ giúp bạn có câu trả lời chính xác.
Tỷ lệ Cho vay khách hàng/Huy động khách hàng (Gross LDR)
Ngân hàng có tỷ lệ này càng cao thì số tiền cho vay ra nhiều hơn so với nguồn vốn huy động được. Từ đó dẫn đến tính thanh khoản thấp.
Tỷ lệ Huy động tiền gửi từ tổ chức/Tổng huy động khách hàng (Non- individuals/Customer deposits )
Tỷ lệ huy động tiền gửi từ tổ chức của ngân hàng càng cao chứng tỏ khả năng đáp ứng thanh toán của ngân hàng càng tốt.
Bài viết trên đã giải đáp thanh khoản là gì và cung cấp các thông tin hữu ích có liên quan. Với khách hàng cá nhân, gửi tiết kiệm online trên ứng dụng HLB Connect là một trong những cách hiệu quả để tăng tính thanh khoản. Cụ thể, hình thức này có thời hạn gửi tiền đa dạng với lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, bạn có thể linh hoạt rút tiền khi cần thiết, giúp tăng tính thanh khoản cho các khoản tiết kiệm.
Không chỉ vậy, với ứng dụng ngân hàng số HLB Connect hiện đại và đảm bảo an toàn, bạn sẽ có trải nghiệm gửi tiết kiệm nhanh chóng, tiện lợi và hạn chế các rủi ro không mong muốn.
Để được tư vấn về hình thức gửi tiết kiệm online tăng tính thanh khoản cho tài sản, bạn vui lòng liên hệ Hotline 1900 633 068 hoặc để lại thông tin để được hỗ trợ sớm nhất.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng giữ vai trò quan trọng, quyết định đến sự “sống còn”, phát triển của các ngân hàng. Trong thời gian qua, công cuộc chuyển đổi số ngân hàng ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế triển khai chuyển đổi số ngân hàng cũng gặp không ít những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ để có thể đạt được mục tiêu trong Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Bài viết phân tích thực trạng và nêu ra một số giải pháp tháo gỡ khó khăn trong thực hiện chuyển đổi số ngân hàng.
1. Thực trạng chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng
Trong kỉ nguyên chuyển đổi số, không tiến lên chính là đang tụt hậu. Chính vì vậy, hiện nay chuyển đổi số trở thành xu hướng tất yếu trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Trong những năm gần đây, ngành Ngân hàng đã có nhiều thay đổi đáng kể với ứng dụng chuyển đổi số, bên cạnh đó, các công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã làm thay đổi thị trường với sự xuất hiện của công nghệ chuỗi khối (Blockchain) và tiền điện tử. Các ngân hàng đã ứng phó với những thay đổi của thị trường và đã hợp tác với Fintech để đưa ra các dịch vụ kĩ thuật số mới nhằm chủ động thích ứng với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), tạo lợi thế cạnh tranh và phát triển bền vững. Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ đơn giản là ứng dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ Blockchain... mà còn là sự chuyển đổi về toàn bộ mô hình, chiến lược và văn hóa kinh doanh, cách thức hoạt động của ngân hàng trên nền tảng đổi mới công nghệ. Có thể nói, ngân hàng là ngành tiên phong trong chuyển đổi số, trên cơ sở đó, liên tục đem đến những cải tiến và đột phá trong cung cấp các hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của người dân và toàn xã hội.
Chuyển đổi số trong ngân hàng là việc tích hợp số hóa và công nghệ số vào mọi lĩnh vực ngân hàng. Sự tích hợp này cho phép tạo mới hoặc sửa đổi các quy trình kinh doanh, văn hóa và trải nghiệm khách hàng hiện có nhằm đáp ứng các yêu cầu thay đổi của thị trường và mong muốn của khách hàng. Chuyển đổi số giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí và hợp lí hóa các quy trình hoạt động. Sự tích hợp này cũng mang lại trải nghiệm khách hàng dễ dàng và hấp dẫn hơn. Ngân hàng số có thể thực hiện hầu hết các giao dịch ngân hàng bằng hình thức trực tuyến thông qua Internet. Khi sử dụng các giao dịch của ngân hàng số, khách hàng không phải đến các chi nhánh ngân hàng; giảm thiểu đến mức tối đa những thủ tục giấy tờ liên quan. Đồng thời, tính năng của ngân hàng số có thể thực hiện mọi lúc, mọi nơi mà không phụ thuộc vào thời gian, không gian nên khách hàng hoàn toàn chủ động. Mọi giao dịch ngân hàng đều thực hiện trực tuyến qua Internet, ngân hàng thực hiện số hóa quy trình, mọi mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng đều được xử lí online, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền 24/7, vay ngân hàng, gửi tiết kiệm, nộp tiền vào tài khoản, quản lí tài khoản, quản lí thẻ, đầu tư, bảo hiểm, quản lí tài chính cá nhân và doanh nghiệp - khả năng bảo mật là tuyệt đối và được giám sát chặt chẽ.
Đối với ngân hàng số, mọi hoạt động được số hóa và được thực hiện thông qua Internet Banking và Mobile Banking, khách hàng có thể thực hiện mọi giao dịch trên website và ứng dụng di động của ngân hàng. Sử dụng ngân hàng số mang đến tiện ích tối đa, thiết bị sử dụng đa dạng: Máy tính, laptop, điện thoại thông minh... có kết nối Internet. Tất cả các hoạt động được thực hiện ở quầy giao dịch truyền thống đều được số hóa và tích hợp vào một ứng dụng ngân hàng số, do vậy, khách hàng không phải đến giao dịch tại các quầy giao dịch truyền thống. Bên cạnh đó, các hoạt động như quản lí rủi ro, nguồn vốn, phát triển sản phẩm... cũng được số hóa.
Theo Thông tư số 35/2016/TT-NHNN ngày 29/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet, Internet Banking là các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ trung gian thanh toán được các đơn vị cung cấp thông qua mạng Internet. Theo đó, Internet Banking là dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho phép khách hàng quản lí tài khoản và thực hiện các giao dịch như chuyển tiền, gửi tiền tiết kiệm online, thanh toán hóa đơn, các dịch vụ tài chính, nộp tiền, nộp thuế... thông qua thiết bị kết nối Internet. Khách hàng giao dịch trực tiếp trên website ngân hàng.
Mobile Banking là dịch vụ cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch tài chính trên ứng dụng của điện thoại thông minh. Khách hàng chỉ cần tải App của ngân hàng về thiết bị di động và đảm bảo điện thoại kết nối Internet là có thể sử dụng.
CMCN 4.0 đã và đang tạo nên sự phát triển đột phá trong hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, tạo cơ sở hình thành và phát triển ngân hàng số. Ngân hàng số đòi hỏi cao về công nghệ, bao gồm sự đổi mới trong dịch vụ tài chính, kĩ thuật số, chiến lược di động, AI, thanh toán, RegTech (quản lí các quy trình pháp lí thông qua công nghệ), dữ liệu, công nghệ Blockchain, giao diện lập trình ứng dụng (API), kênh phân phối và công nghệ..., bởi vì, công nghệ làm giảm đáng kể các trung gian tài chính, giúp các giao dịch tài chính được thực hiện nhanh hơn, chi phí thấp hơn, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính đối với khách hàng, thông qua đó có thể thực hiện 24/7 theo thời gian thực.
Với dữ liệu lớn (Big Data) hỗ trợ truy cập vào thông tin chi tiết chuyên sâu về thói quen, sở thích, nhu cầu của khách hàng, trong khi AI giúp các ngân hàng dễ dàng điều chỉnh trải nghiệm của khách hàng, tiếp cận khách hàng tại những điểm tiếp xúc quan trọng và thay đổi sản phẩm, dịch vụ phù hợp, tăng sự hài lòng của khách hàng và công nghệ 4.0 giúp tăng cường hiệu quả và bảo mật, do có thể làm thay đổi hệ thống ngân hàng toàn diện; sử dụng đám mây lai (Hybrid Cloud) - một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin kết nối đám mây công cộng với các không gian đám mây riêng để tạo ra một môi trường đám mây linh hoạt duy nhất; ứng dụng công nghệ 4.0 cũng giúp các ngân hàng tiếp thị hiệu quả và có mục tiêu, hỗ trợ khách hàng thông qua Robot với chi phí rất thấp, mở rộng khu vực hoạt động, giảm thiểu rủi ro nhờ đánh giá dựa trên dữ liệu, quản trị kinh doanh tốt hơn, giảm thiểu những lỗi do con người tạo ra trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ.
Trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển, chuyển đổi số đã trở thành yếu tố tiên quyết đối với sự “sống còn” của ngành Ngân hàng.
Tại Mỹ, Bank of America đã triển khai thành công ngân hàng số, tự động hóa hoàn toàn với Chatbot Eric để hỗ trợ khách hàng trên ứng dụng di động, thành lập các chi nhánh Robot (Robo-branches), lắp đặt hàng loạt máy tính bảng tại các chi nhánh để khách hàng có thể chủ động tự thực hiện các giao dịch cơ bản mà không cần tới giao dịch viên.
Còn tại Citizens Bank (Mỹ) đã triển khai thành công nhân viên bảo vệ Knightscope K5 là Robot với những chức năng như quay video 360 độ, nhận diện biển số xe, hoạt động 24/7 và tự sạc pin, nhận diện được những người không được phép tiếp cận vào khu vực cấm, nhận diện được các tín hiệu lạ truyền tới ngân hàng...
Tại Trung Quốc, Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc đã triển khai thành công ngân hàng tự động hóa hoàn toàn cùng với Robot Tiểu Long (Xiao Long) để phục vụ khách hàng, ATM có khả năng mở tài khoản mới cho khách hàng và giao dịch ngoại hối.
Tại Việt Nam, ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việc ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN có thể xem là dấu mốc có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện sự chủ động, sáng tạo, bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ và thống nhất ý chí, hành động toàn Ngành để tạo sức mạnh cộng hưởng to lớn giúp ngành Ngân hàng phát triển bền vững trong kỉ nguyên số, tiếp tục tiên phong trong triển khai Chương trình chuyển đổi số quốc gia và đóng góp tích cực cho sự phát triển nền kinh tế số Việt Nam. Đồng thời, để ghi dấu ấn cho hoạt động chuyển đổi số của Ngành, góp phần tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực trong chương trình chuyển đổi số quốc gia, ngày 11/5 được chọn là Ngày Chuyển đổi số ngành Ngân hàng.
Theo đó, để triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án của Chính phủ, Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đã đặt ra các mục tiêu rất cụ thể: Đến năm 2025, 50% các nghiệp vụ ngân hàng được số hóa; 70% giao dịch khách hàng thực hiện trên kênh số; 50% khoản vay nhỏ lẻ, vay tiêu dùng khách hàng cá nhân được số hóa, tự động...
Ngành Ngân hàng là ngành đầu tiên ban hành kế hoạch chuyển đổi số, với mục tiêu rõ ràng: Nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng thực hiện hoàn toàn trên kênh số; có doanh thu từ kênh số đạt trên 30%; số lượng giao dịch của khách hàng được thực hiện thông qua các kênh số ngày càng cao, đặc biệt, các dịch vụ thanh toán số hóa 100%, còn về giải ngân cho vay của các công ty tài chính với các khoản cho vay nhỏ lẻ lên tới 70%.
Để thúc đẩy công tác chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng, trong thời gian qua, NHNN đã chỉ đạo, phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ, ứng dụng các công nghệ như AI, học máy (ML), Big Data... để phân tích hành vi, nhu cầu của khách hàng, tối ưu hóa việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ đa dạng, phù hợp; phát triển các sản phẩm thanh toán đa dạng, phong phú, tích hợp nhiều tính năng, tiện ích mới không tiếp xúc, qua mobile; số hóa thông tin/tokenization; xác thực sinh trắc học, qua Internet, điện thoại di động với nhiều công nghệ hiện đại, an toàn, tiện lợi.
Đến nay, hầu hết các tổ chức tín dụng đã, đang hoặc dự tính xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số; tích cực ứng dụng các công nghệ của CMCN 4.0 hoặc hợp tác với công ty Fintech nhằm tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng. Nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100%; nhiều ngân hàng đã ghi nhận tỉ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số với tỉ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) ở mức tối ưu, chỉ từ 30 - 40%. Các ngân hàng đã ứng dụng các công nghệ của CMCN 4.0 trong đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân... giúp đơn giản hóa quy trình thủ tục và rút ngắn thời gian giải ngân, cho vay. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cũng chú trọng thiết lập quan hệ đối tác, hợp tác kinh doanh, mở rộng hệ sinh thái số các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và ngoài ngân hàng nhằm thu hút, giữ chân khách hàng, tích hợp sâu dịch vụ ngân hàng vào hành trình số thường nhật của khách hàng.
Về khuôn khổ pháp lí, NHNN đã ban hành Thông tư hướng dẫn mở tài khoản thanh toán, phát hành thẻ bằng phương thức điện tử (eKYC); nghiên cứu, dự thảo, hoàn thiện Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt; dự thảo, hoàn thiện Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng; ban hành, thực hiện các tiêu chuẩn chung (QR Code, tiêu chuẩn thẻ chíp); ban hành các quy định về an toàn, bảo mật thông tin trong hoạt động ngân hàng...
Về hạ tầng cho chuyển đổi số, cách đây 05 năm, mỗi ngày có 50.000 giao dịch ngân hàng, tính đến hết quý I/2023 con số đã lên tới 08 triệu giao dịch/ngày. Giá trị giao dịch lên tới 900.000 tỉ đồng/1 ngày, tương đương với hơn 40 tỉ USD giao dịch qua ngân hàng. Các ngân hàng, trung gian thanh toán được kết nối liên thông, với thời gian giao dịch tính bằng giây. Đã có sự kết nối liền mạch, khách hàng qua các ứng dụng Mobile Banking có thể thanh toán tiền điện, nước... ngay lập tức kho dữ liệu gạch hóa đơn và hạch toán ngay.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã triển khai đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công, NHNN đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan triển khai nhiều chính sách thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, đặc biệt lĩnh vực y tế, giáo dục. Trong đó, NHNN đã phối hợp với Bộ Công an xây dựng và triển khai phương án cấp và quản lí tài khoản an sinh xã hội trên nền tảng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Quy định kĩ thuật về dữ liệu trong thanh toán không dùng tiền mặt đối với việc thu học phí và các khoản thu dịch vụ giáo dục; hỗ trợ triển khai thanh toán trực tuyến lệ phí đăng kí xét tuyển đại học... NHNN tiếp tục đẩy mạnh triển khai kết nối, tích hợp thanh toán trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Theo số liệu của Cục Kiểm soát thủ tục hành chính - Văn phòng Chính phủ, tính đến 15/6/2023, có hơn 17,23 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia với số tiền hơn 10,391 nghìn tỉ đồng.
Bên cạnh những thuận lợi, công cuộc chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tế triển khai thực hiện. CMCN 4.0 đang diễn ra nhanh chóng, một số cơ chế, chính sách (đầu tư cơ sở hạ tầng, quản lí hoạt động, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật...) chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của công nghệ.
Thứ nhất, khó khăn trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lí cho hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng. NHNN đã phối hợp với các bộ, ngành và các đơn vị liên quan trong việc nghiên cứu, xây dựng, tham gia ý kiến góp ý dự thảo Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, cơ chế thử nghiệm là một cách tiếp cận chính sách mới, phức tạp và chưa có tiền lệ tại Việt Nam, vì vậy, việc rà soát các quy định pháp lí về việc ban hành Nghị định cần phải được thực hiện một cách thận trọng và cần có sự phối hợp, thống nhất giữa các bộ, ngành liên quan trước khi trình Chính phủ chính thức ban hành.
Mặt khác, Fintech là lĩnh vực luôn đổi mới, bao gồm cả yếu tố kĩ thuật như công nghệ áp dụng và yếu tố kinh doanh như các mô hình dịch vụ, mối quan hệ pháp lí giữa các thủ thể tham gia cung ứng, sử dụng giải pháp, dịch vụ. Do đó dẫn tới việc các hoạt động Fintech tại một thời điểm nào đó có thể đang nằm trong vùng khoảng trống pháp lí như: Không có cơ quan thẩm quyền trực tiếp quản lí; không có quy định pháp lí điều chỉnh hoặc quy định pháp lí hiện hành không còn phù hợp, không theo kịp để điều chỉnh các hoạt động nghiệp vụ diễn ra đáp ứng các nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội. Trong thời gian qua, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định kéo dài, chậm ban hành là do trong quá trình hoàn thiện, xây dựng dự thảo Nghị định, giữa các bộ, ngành liên quan, giữa các cơ quan quản lí còn có sự chưa thống nhất nhận thức về cách tiếp cận pháp lí khi xây dựng Nghị định.
Thứ hai, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan trong việc xử lí tội phạm trong lĩnh vực thanh toán. Tội phạm công nghệ cao trong hoạt động thanh toán ngày càng tinh vi và phức tạp; các vấn đề liên quan đến việc lợi dụng hoạt động thanh toán cho các hoạt động bất hợp pháp thuộc chức năng quản lí của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau như quản lí hàng hóa, quản lí thuế, hoạt động lữ hành, quản lí xuất nhập cảnh, thương mại điện tử, thông tin viễn thông... trong đó, hoạt động thanh toán qua ngân hàng chỉ là một khâu (cuối cùng) trong chuỗi hoạt động. Vì vậy, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lí để xử lí, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lí nhà nước trong lĩnh vực thanh toán.
Thứ ba, trong thời gian vừa qua, một số đơn vị trong ngành Ngân hàng đã phối hợp với Bộ Công an hoàn thành triển khai thử nghiệm giải pháp xác thực khách hàng qua thẻ căn cước công dân gắn chíp trong một số nghiệp vụ của ngân hàng thương mại như: Xác thực, định danh khách hàng tại quầy giao dịch; xác thực, định danh khách hàng từ xa qua mạng Internet (eKYC) để mở tài khoản, thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử, ngân hàng số; xác thực, định danh khách hàng giao dịch tại ATM, thay thế thẻ ATM do ngân hàng phát hành... Bên cạnh đó, ngoài hoạt động xác minh thông tin nhận biết khách hàng, các tổ chức tín dụng có nhu cầu cấp thiết cần kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để làm sạch cơ sở dữ liệu khách hàng hiện có, nhằm đảm bảo cho hệ thống tài khoản, thông tin khách hàng lưu trữ tại các tổ chức tín dụng là chính xác; loại bỏ các tài khoản rác, mạo danh khi mở tài khoản tại các tổ chức tín dụng. Hoạt động làm sạch dữ liệu khách hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi gian lận, lừa đảo, cho thuê, mượn tài khoản ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, ngăn ngừa tội phạm gian lận, lừa đảo tại các tổ chức tín dụng. Nghị định số 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 37/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021) đã cho phép tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ viễn thông, di động... khai thác thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Ngành Ngân hàng đã chủ động, tích cực phối hợp với các đơn vị chức năng thuộc Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ triển khai kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư ứng dụng trong các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số của Ngành, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ngày 24/4/2023, NHNN và Bộ Công an đã kí kết Kế hoạch triển khai các nhiệm vụ tại Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06). Kế hoạch phối hợp triển khai Đề án 06 giữa NHNN và Bộ Công an là tiền đề hết sức quan trọng để phát huy sự kết hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan trong thực thi nhiệm vụ được Đảng, Chính phủ giao phó; mang lại hiệu quả thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu tại Chương trình chuyển đổi số quốc gia nói chung cũng như chuyển đổi số ngân hàng nói riêng.
Đối với việc khai thác ứng dụng định danh điện tử (VNeID) trong hoạt động ngân hàng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2022/NĐ-CP ngày 05/9/2022 quy định về định danh và xác thực điện tử; theo đó, cho phép các tổ chức trong đó có ngân hàng có thể khai thác thông tin, dữ liệu công dân qua hệ thống định danh và xác thực điện tử để xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn triển khai Nghị định số 59/2022/NĐ-CP nên cũng chưa đủ cơ sở, chưa thuận lợi cho ngân hàng trong việc khai thác thông tin khách hàng trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi thực hiện các giao dịch.
Đối với việc xác định giao dịch tại ATM bằng thẻ căn cước công dân gắn chíp, hiện tại chưa có quy định cụ thể việc sử dụng thiết bị đọc thẻ căn cước công dân gắn chíp để xác minh, nhận biết khách hàng.
Để việc thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được thuận lợi, đúng lộ trình và đáp ứng được mục tiêu của chương trình, cần có sự phối hợp của các bộ, ngành, cụ thể:
Một là, cần sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa các bộ, ngành, đơn vị liên quan trong việc nghiên cứu, đóng góp ý kiến, ban hành các quy định pháp luật để tạo nên một hành lang pháp lí hoàn chỉnh, thích ứng, phù hợp nhằm quản lí một cách có hiệu quả, an toàn hoạt động thanh toán và các giao dịch điện tử trong toàn bộ nền kinh tế như: (i) Nghị định mới về thanh toán không dùng tiền mặt (thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 và sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều tại Nghị định số 16/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lí nhà nước của NHNN); (ii) Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng... Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng nên cần thiết phải đẩy nhanh tiến độ trong việc hoàn thiện hành lang pháp lí (đầu tư cơ sở hạ tầng, quản lí hoạt động, đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật...) nhằm thích ứng, phù hợp với các hoạt động nghiệp vụ phát sinh trong thực tế.
Hai là, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan tích cực phối hợp, trao đổi, cung cấp thông tin cho NHNN về các phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm trong lĩnh vực thanh toán, để có giải pháp ứng phó, kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa việc lợi dụng các dịch vụ thanh toán, dịch vụ tiền gửi thanh toán phục vụ cho các hoạt động bất hợp pháp, đồng thời, đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động thanh toán.
Ba là, để tháo gỡ vướng mắc trong việc khai thác thông tin, xác thực, định danh khách hàng, Bộ Công an cần sớm ban hành các hướng dẫn về thủ tục kết nối; các điều kiện kĩ thuật; các phương thức, giao thức kết nối, giao diện lập trình ứng dụng để các tổ chức tín dụng có thể khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo quy định tại Nghị định số 137/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 37/2021/NĐ-CP) phục vụ các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng (công tác phòng, chống rửa tiền, ngăn ngừa tội phạm gian lận, lừa đảo...) tại các tổ chức tín dụng.
Đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc khai thác, xác thực thông tin khách hàng thông qua ứng dụng VNeID, Bộ Công an nghiên cứu, sớm ban hành văn bản hướng dẫn triển khai những nội dung quy định tại Nghị định số 59/2022/NĐ-CP ngày 05/9/2022 quy định về định danh và xác thực điện tử; ban hành hướng dẫn các quy định liên quan đến điều kiện sử dụng thiết bị đọc thẻ căn cước công dân gắn chíp (tiêu chuẩn, điều kiện kĩ thuật, trách nhiệm của đơn vị cung cấp, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng...). Trên cơ sở đó, các tổ chức tín dụng có kế hoạch trang cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực, hướng dẫn người dùng, đáp ứng các điều kiện trong việc khai thác các thông tin liên quan từ ứng dụng VNeID phục vụ việc thực hiện các nghiệp vụ, giao dịch phục vụ khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
1. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
2. Báo Điện tử Chính phủ, Chuyên mục Kinh tế - Ngân hàng, Tổng thuật: Sự kiện chuyển đổi số ngành Ngân hàng, ngày 04/8/2022.
3. Thông tư số 35/2016/TT-NHNN ngày 29/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet.
4. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
5. NHNN, Văn bản số 1429/TT1 ngày 06/12/2022 của Vụ Thanh toán “Báo cáo kiểm điểm chỉ đạo, điều hành năm 2022 và đề xuất phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2023”.
6. NHNN, Văn bản số 996/NHNN-CNTT ngày 23/02/2023 “Báo cáo tình hình triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử (Đề án 06) tháng 02/2023”.
Vụ Kiểm toán nội bộ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam